Khoa Chẩn đoán hình ảnh – Bệnh viện Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương, kỹ thuật siêu âm đàn hồi mô được thực hiện trên Logic -4D- P7 của hãng GE: với kỹ thuật siêu âm SWE đạt tiêu chuẩn quốc tế. Toàn bộ quy trình siêu âm đàn hồi gan đều được thực hiện bởi đội ngũ bác sỹ có kinh nghiệm và được đào tạo bài bản sẽ giúp chẩn đoán các bệnh lý tuyến vú, tuyến giáp, bệnh gan mạn tính, đặc biệt là viêm gan virus B, C, viêm gan do rượu, gan nhiễm mỡ,…).
Kỹ thuật siêu âm đàn hồi mô đã ra đời từ năm 1991 và ngày càng được phát triển mạnh mẽ. Siêu âm đàn hồi mô cho phép đánh giá độ cứng của mô, tạo ra bước ngoặt thứ 2 của ngành siêu âm chẩn đoán và cho phép đánh giá tính chất của mô tổn thương.
Có 2 loại siêu âm đàn hồi mô:
- Strain Elastography: là phương pháp đo độ đàn hồi bằng việc sử dụng sóng dọc. Đây là phương pháp định tính (đánh giá tổn thương có cứng hơn mô xung quanh hay không), bán định lượng (xác định cứng hơn mô xung quanh bao nhiêu lần). Với cùng 1 lực tác dụng, mô mềm dịch chuyển nhiều và mô cứng dịch chuyển ít. Mức độ chuyển dời được hiển thị trên bản đồ đàn hồi (Elastogram). Kỹ thuật này được thực hiện trên tuyến vú, tuyến giáp, u mỡ dưới da, hạch cổ…Những tổ thương có mức độ cứng cao thì có nguy cơ ác tính cao và cần thực hiện các kỹ thuật chuyên sâu khác phối hợp xác định chẩn đoán.
- Shear Wave Elastography: Là phương pháp định lượng: sử dụng sóng ngang. Vật càng cứng thì vận tốc sóng ngang càng cao. Đơn vị đo độ cứng được xác định là kPa. Có nhiều phương pháp:
– Siêu âm đàn hồi thoáng qua (Transient Elastography) bằng máy Fibroscan: là phương pháp ra đời đầu tiên của siêu âm đàn hồi định lượng, ngay sau đó nó rất thịnh hành làm người ta khi nói về siêu âm đàn hồi mô gan định lượng là nhắc đến Fibroscan. Hạn chế của kỹ thuật này là không nhìn thấy hình ảnh B-mode khi thực hiện kỹ thuật và những bệnh nhân béo phì, cổ chướng, viêm gan hoạt động, khoang liên sườn hẹp hoặc có tổn thương khu trú ở gan phải sẽ cho kết quả không chính xác.
– Kỹ thuật đo vận tốc sóng biến dạng bằng kỹ thuật ARFI (Acoustic Radiation Force Impulse imaging). Kỹ thuật này hoạt động theo nguyên lý ghi hình bằng xung lực xạ âm, có thể khảo sát các mô ở sâu mà không phải ấn đầu dò. Kỹ thuật ARFI kích thích cơ học mô bằng cách dùng xung đẩy thời gian ngắn trong vùng được chọn, tạo nên sóng biến dạng thẳng góc với xung đẩy, sau đó đo vận tốc sóng biến dạng.
– Ghi hình sóng biến dạng siêu thanh (Supersonic Shear wave Imaging: SSI)
– Point SWE: siêu âm đàn hồi định lượng điểm. Kỹ thuật này kết hợp giữa siêu âm B-mode, Doppler và Elastography. Mỗi lần thực hiện 1 thao tác đo được 1 con số đại diện cho 1 điểm, và khi đó ta cần thực hiện 10 lần đo để lấy trị số trung bình.
– 2D-SWE: siêu âm đàn hồi định lượng đa điểm. Kỹ thuật này có bản đồ đàn hồi định lượng độ cứng tại một vùng, ROI lớn và có hình ảnh B-mode hướng dẫn. Vì vậy đây là kỹ thuật có độ chính xác cao nhất trong các phương pháp. Có thể thực hiện với bệnh nhân béo phì, cổ chướng… Hình đàn hồi được tạo trong 1 bản đàn hồi định lượng, và ta thu được độ cứng trung bình của các điểm ảnh. Kỹ thuật này chỉ cần đo 5 lần là đủ.
SIÊU ÂM ĐÀN HỒI MÔ GAN
Hầu hết bệnh gan mạn do bất cứ nguyên nhân gì nếu không được điều trị đều có thể dẫn đến xơ hóa gan, cuối cùng tiến triển đến xơ gan và ung thư gan. Xơ hóa gan là hậu quả của tổn thương mạn tính ở gan, biểu hiện bởi sự tích tụ cơ chất gian bào do sự mất cân bằng giữa sản xuất, lắng đọng và phá hủy. Xơ hóa gan sẽ diễn tiến từ từ đến xơ gan. Mức độ xơ hóa gan là yếu tố dự đoán biến chứng và tử vong liên quan đến bệnh gan rất quan trọng và có ý nghĩa. Đánh giá mức độ xơ hóa gan rất cần thiết trong chỉ định điều trị, theo dõi và tiên lượng viêm gan mạn, góp phần quan trọng nhằm giảm tỷ lệ tiến triển đến xơ gan và ung thư gan. Cho đến nay, sinh thiết gan vẫn được xem là tiêu chuẩn vàng để đánh giá xơ hóa gan và phân loại xơ hoá gan theo Metavir đang được sử dụng phổ biến nhất. Tuy nhiên, sinh thiết gan là phương pháp xâm nhập, có thể có biến chứng và một số hạn chế. Do đó, các phương pháp đánh giá xơ hóa gan không xâm nhập trên thế giới ngày càng phát triển, đã và đang được áp dụng rộng rãi nhằm hạn chế nhu cầu sinh thiết gan.
Trong đó siêu âm đàn hồi mô gan, có thể định lượng, độ chính xác cao, được thực hiện nhanh chóng , làm được nhiều lần. không gây đau đớn hay bất kỳ sự khó chịu nào cho người bệnh, bên cạnh đó kỹ thuật này có giá thành rẻ. Sự kết hợp giữa định lượng độ cứng gan với siêu âm thường quy (B-Mode và Doppler) trong cùng một lần khám, đem lại hiệu quả cao, chính xác, giúp cho bệnh nhân có cơ hội tầm soát xơ hóa gan sớm hơn. Việc xác định mức độ xơ hóa gan nhằm mục đích:
+. Đánh giá độ xơ hóa gan trên các đối tượng có yếu tố nguy cơ cao dẫn đến xơ gan hay ung thư gan như: Viêm gan B, C, xơ gan rượu, gan nhiễm mỡ, một số bệnh chuyển hóa ảnh hưởng đến gan nhằm đánh giá giai đoạn, theo dõi điều trị và tiên lượng xơ hóa gan để tránh tiến triển đến xơ gan
+. Thiết lập chế độ theo dõi đặc biệt, xác định thời gian tối ưu để bắt đầu tầm soát biến chứng (ung thư tế bào gan, dãn tĩnh mạch thực quản…) đối với xơ hóa nặng.
+. Theo dõi điều trị: đánh giá tiến triển hay thoái triển xơ hóa gan.
+. Giảm các trường hợp phải sinh thiết: Bình thường người bệnh cần sinh thiết mô gan để xác định mức độ xơ hóa gan. Vì đây là kỹ thuật xâm lấn nên có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm, đặc biệt với những người có bệnh lý gan nặng hoặc bệnh lý nền không cho phép can thiệp. Nhờ có siêu âm đàn hồi mô mà giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh có độ chính xác tới 90% so với sinh thiết làm giải phẫu bệnh. Từ đó giảm thiểu tối đa các trường hợp cần phải làm sinh thiết gan.
+. Ngoài ra siêu âm đàn hồi mô gan định lượng còn giúp đánh giá các tổn thương dạng khối: Từ siêu âm đàn hồi gan xác định độ cứng của mô. Thông qua quy đổi để đánh giá, quy về 4 mức độ nếu score 4 là u ác tính, score 2,3 nghi ngờ, xét thêm các yếu tố khác, score 1 là tổn thương lành tính.
Bác sĩ thực hiện siêu âm tại bệnh viện Trường Đại học KTYT Hải Dương
Kỹ thuật siêu âm đàn hồi mô gan SWE:
- Chuẩn bị bệnh nhân
Người bệnh nên nhịn ăn tối thiểu 2 giờ và nghỉ ngơi tối thiểu 10 phút trước khi đo độ cứng gan.
Tư thế bệnh nhân: nằm ngữa hoặc chếch trái trước 30 độ, tay P đưa lên đầu
- Kỹ thuật đo
Bước 1: Đánh giá nhu mô trên siêu âm 2D, chọn vị trí đặt ROI ở HPT 7 hoặc 8, dưới bao gan 2 cm, hướng trục ROI vuông góc bề mặt gan
Bước 2: Ấn phím đo sau khi bảo bệnh nhân ngưng thở lại khi đang thở ra nửa chừng
Máy tự động cho kết quả độ cứng và vận tốc sóng biến dạng
Tiến hành 10 lần, lấy giá trị trung vị (median).
Chỉ số IQR/Median < 30%
Kết quả đo:
F0:không xơ hóa.
F1:xơ hóa nhẹ, bắt đầu có tổn thương gan, tổn thương với vài xơ hóa khoảng cửa quanh các mạch máu rải rác, không nối với nhau.
F2:Xơ hóa có ý nghĩa: tổn thương gan trung bình, xơ hóa khoảng cửa quanh các mạch máu và chưa nối với nhau.
F3:xơ hóa nặng: xơ hóa lan tỏa, các vùng xơ nối với nhau.
F4:xơ gan
SIÊU ÂM ĐÀN HỒI MÔ TUYẾN GIÁP
Siêu âm đàn hồi mô tuyến giáp giúp chẩn đoán các nốt tuyến giáp. Khi làm siêu âm B mode thấy một tổn thương khu trú, bên cạnh việc nhận định hình thái tổn thương. Chúng ta phân loại theo TIRADS để nhận định mức độ lành tính hay ác tính, thăm dò Doppler để đánh giá tình trạng tưới máu, và làm siêu âm đàn hồi mô để nhận định độ cứng sẽ cho phép đánh giá tính chất lành tính hay ác tính của tổn thương chính xác hơn và chỉ định sinh thiết chuẩn xác hơn
Trên siêu âm đàn hồi mô tuyến giáp, dựa trên đánh giá độ cứng của mô từ đó đưa ra nhận định về tính chất ác tính của mô tổn thương. Giúp gia tăng độ đặc hiệu của chẩn đoán đồng thời thu hẹp chỉ định sinh thiết mà không bỏ sót tổn thương
Dựa vào siêu âm đàn hồi mô cung cấp thêm thông tin, độ cứng của khối, hỗ trợ siêu âm B-mode, đồng thời chọc sinh thiết với các tổn thương cần thiết, chọc đúng vị trí tương ứng có độ cứng cao( nguy cơ cao). Siêu âm đàn hồi mô là kênh thông tin hiệu quả cho bác sĩ lâm sàng. Đặc biệt với ung thư giáp, phát hiện sớm thì tỷ lệ điều trị thành công cao.
SIÊU ÂM ĐÀN HỒI MÔ VÚ
Siêu âm đàn hồi mô vú, tăng độ tin cậy trong chẩn đoán: Dựa trên hình ảnh siêu âm B-mode và phân loại BI-RADS, phối hợp với siêu âm đàn hồi mô có kết quả dương tính hay âm tính đưa đến các mức độ tổn thương vú. Điều này làm gia tăng tin cậy và độ chính xác chẩn đoán sớm trong việc phân biệt tổn thương là lành tính hay ác tính
Cho phép rút ngắn thời gian theo dõi: một tổn thương mềm trên siêu âm đàn hồi, thì chúng có thể được hạ bật xếp loại là BI-RADS 3 xuống còn BI-RADS 2 (tổn thương lành tính), sẽ giảm bớt những lần theo dõi không cần thiết, thay vì BI-RADS 3 trên siêu âm B mode sẽ được khuyên theo dõi trong khoảng thời gian ngắn (06 tháng) cho đến hai năm.
Chuyển từ theo dõi ngắn hạn qua sinh thiết: Siêu âm đàn hồi giúp tăng độ BI-RADS. Một số tổn thương vú ác tính có giới hạn rõ có thể bị hiểu sai trên siêu âm B mode và đang bị phân loại nhầm là tổn thương BI-RADS loại 3, trong khi siêu âm đàn hồi mô có tăng độ cứng và dẫn đến có chỉ định sinh thiết cho tổn thương. Ngược lại, có thể thay đổi quyết định sinh thiết sang theo dõi ngắn hạn
PGS.TS. Trần Văn Việt – Trưởng khoa CĐHA Trường Đại học KTYT Hải Dương